Làm rõ cấu trúc hệ thống: Khép lại thời kỳ "mỗi nơi hiểu một kiểu"
TS Hoàng Ngọc Vinh – nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT), người theo dõi nhiều năm dòng chảy cải cách giáo dục, nhìn nhận đây không phải là việc xếp ba văn bản pháp luật vào cùng một thời điểm cho "đủ bộ", mà theo ông, "ba luật lần này nhắm đến ba nút thắt lớn nhất của hệ thống". Vì vậy, ba luật lần này không sửa những phần dễ mà đi vào những vấn đề từng gây vướng mắc kéo dài.
Thứ nhất là cấu trúc hệ thống và văn bằng: làm rõ các bậc học, chuẩn đầu ra, liên thông phổ thông - nghề - đại học, xử lý tình trạng "mỗi nơi hiểu một kiểu", nhất là ở trung học nghề, cao đẳng, văn bằng có tính chuyên nghiệp đặc thù. Thứ hai là cơ chế tự chủ - tài chính - quản trị, đặc biệt với đại học và cơ sở GDNN: ai được quyết, được quyết đến đâu, chịu trách nhiệm thế nào, gắn với kiểm định, xếp hạng, dữ liệu số chứ không chỉ "xin - cho". Thứ ba là phân luồng và phát triển kỹ năng: luật buộc chúng ta nhìn giáo dục không chỉ là "đường vào đại học" mà là một hệ sinh thái kỹ năng suốt đời, kết nối chặt hơn với chiến lược nhân lực và thị trường lao động.
TS Hoàng Ngọc Vinh cho rằng, nếu các nghị định, thông tư được thiết kế đồng bộ và thực thi nghiêm túc, thì giai đoạn 2026–2030 sẽ có tác động khá sâu: dòng chảy người học đa dạng hơn, mạng lưới trường được sắp lại, và phân bổ nguồn lực nhà nước sang ưu tiên cho chất lượng và hiệu quả đầu ra.

TS Hoàng Ngọc Vinh nhấn mạnh, ba luật lần này nhắm đến ba nút thắt lớn nhất của hệ thống.
Khẳng định tự chủ phải đi kèm trách nhiệm giải trình
Một điểm nhấn khác của lần sửa luật là cơ chế tự chủ và quản trị cơ sở giáo dục, đặc biệt ở đại học và giáo dục nghề nghiệp. TS Hoàng Ngọc Vinh cho rằng tính khả thi của các quy định này phụ thuộc vào ba yếu tố: khung pháp lý rõ ràng, năng lực quản trị đủ mạnh và văn hóa minh bạch. Về nguyên tắc, tự chủ đi kèm trách nhiệm giải trình, kiểm định và công khai tài chính là đúng hướng, phù hợp xu thế quốc tế. Nhưng nếu "đẩy" quyền xuống trường mà chưa nâng được năng lực hội đồng trường, đội ngũ quản trị, chưa hoàn thiện cơ chế giám sát độc lập thì rủi ro là tự chủ bị biến dạng thành "tự bơi" hoặc "tự thu" trên lưng người học.
Theo TS Hoàng Ngọc Vinh, các quy định là có thể thực thi, nhưng phải đi kèm ít nhất ba việc: cụ thể hóa các "làn ranh đỏ" về học phí, sử dụng tài sản công, đầu tư - mua sắm; hoàn thiện các thiết chế trung gian như kiểm định độc lập, kiểm toán, xếp hạng, công bố dữ liệu bắt buộc; và đào tạo một "thế hệ quản trị mới" cho các cơ sở giáo dục, biết đọc dữ liệu, quản lý rủi ro và đối thoại với xã hội. Nếu chỉ đổi luật mà không "nâng cấp" năng lực và đạo đức quản trị thì tự chủ rất dễ trở thành cú tăng ga trước một khúc cua mù.
Giáo dục nghề nghiệp: Chuyển từ đào tạo theo "cung" sang đào tạo theo "cầu"
Luật Giáo dục nghề nghiệp sửa đổi được kỳ vọng tạo bước ngoặt trong việc gắn kết đào tạo với thị trường lao động. Theo TS Vinh, để có chuyển biến thật sự, lần sửa này "cần làm rõ ba điểm then chốt".
Trước hết là định vị rõ trung học nghề và trung học kỹ thuật trong khung trình độ quốc gia, coi đây là một lộ trình hợp pháp và có giá trị chứ không phải "ngõ cụt dành cho học sinh học yếu".
Thứ hai, phải ràng buộc mạnh hơn trách nhiệm của doanh nghiệp: tham gia xây dựng chuẩn kỹ năng, đào tạo tại chỗ, nhận thực tập sinh có trả lương và được hưởng ưu đãi tương xứng.
Thứ ba, cần thiết lập hệ thống thông tin kỹ năng và dự báo việc làm ở cấp quốc gia – vùng – địa phương, giúp mở ngành, đóng ngành, tuyển sinh dựa trên dữ liệu chứ không chỉ kinh nghiệm.
Ông cũng khẳng định, nếu những điểm đó đi vào nghị định, thông tư một cách cụ thể, "tôi tin độ lệch giữa "ngành học" và "nghề làm" sẽ giảm dần, tỷ lệ có việc làm đúng nghề trong GDNN sẽ tăng và hình ảnh trường nghề trong mắt phụ huynh, học sinh cũng thay đổi tích cực".

Luật Giáo dục nghề nghiệp sửa đổi: Tăng kết nối đào tạo – nhu cầu việc làm.
Ba nhóm đối tượng chịu tác động mạnh
Theo TS Hoàng Ngọc Vinh, người học, giáo viên – giảng viên và cơ sở giáo dục đều chịu tác động, nhưng theo mức độ khác nhau khi 3 Luật này chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.
Người học và gia đình chịu tác động trực tiếp khi đường đi sau THCS, THPT đa dạng hơn, tiêu chí tuyển sinh và cách đánh giá học tập thay đổi; các em cần được hỗ trợ hướng nghiệp tốt hơn và có thông tin minh bạch về từng lộ trình học – nghề.
Giáo viên, giảng viên đối mặt với yêu cầu mới về chuẩn nghề nghiệp, phương pháp dạy học, năng lực số, năng lực sử dụng AI; ai không được bồi dưỡng và tự cập nhật sẽ cảm thấy rất áp lực.
Cơ sở giáo dục chịu tác động mạnh nhất về quản trị: sắp xếp lại mạng lưới, chuẩn kiểm định, cơ chế tài chính, trách nhiệm giải trình.
Để thích ứng, theo TS Hoàng Ngọc Vinh, cần có ba đòn bẩy: Một chương trình chuyển đổi năng lực giáo viên và cán bộ quản lý quy mô lớn, có chuẩn năng lực rõ và lộ trình 3-5 năm; Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ người học gồm tư vấn hướng nghiệp, nền tảng số tra cứu ngành nghề, học liệu mở, dịch vụ hỗ trợ tâm lý - kỹ năng; và ở tầm địa phương, kế hoạch hóa lại mạng lưới trường và ngành đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tránh để mỗi trường, mỗi ngành "tự bơi" trong bóng tối.
Những điểm có nguy cơ "tắc nghẽn" khi triển khai
Dù kỳ vọng lớn, TS Vinh cảnh báo nhiều nội dung dễ vướng ngay tại địa phương nếu không có hướng dẫn kịp thời.
Thứ nhất là phân luồng và trung học nghề: "Nếu không có quy định cụ thể về mô hình, chuẩn giáo viên, liên thông và tài chính, địa phương sẽ rất lúng túng, thậm chí ngại làm vì sợ sai".
Thứ hai là tự chủ và sắp xếp mạng lưới trường: ranh giới quyền hạn giữa UBND, Sở và quyền tự chủ của trường chưa rõ; thiếu tiêu chí để sáp nhập, giải thể hay chuyển đổi loại hình.
Thứ ba là liên kết giữa giáo dục phổ thông – nghề nghiệp – đại học: nếu không quy định rõ trách nhiệm và nguồn lực, phối hợp giữa ba hệ thống sẽ chỉ dừng ở khẩu hiệu.
Ông nhấn mạnh các văn bản dưới luật phải đóng vai trò "cẩm nang thực thi" hơn là nhắc lại khẩu hiệu, có mẫu mô hình, tiêu chí, quy trình rất cụ thể cho địa phương. Giai đoạn đầu, theo TS Vinh nên thí điểm một số cơ chế mới để rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng; và cần có cơ chế hỗ trợ kỹ thuật cho địa phương như tổ công tác liên ngành, đường dây tư vấn, kho dữ liệu, để khi gặp "tắc" thì có chỗ hỏi, có căn cứ quyết định, giảm tâm lý sợ trách nhiệm.
Việc Quốc hội thông qua đồng thời ba luật giáo dục được xem là bước tái thiết quan trọng nhằm chuẩn hóa hệ thống, nâng cao chất lượng đào tạo và tăng khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam. Ba đạo luật này mở ra kỳ vọng về một hệ sinh thái giáo dục hiện đại hơn, minh bạch hơn và gắn chặt với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Thu Trang