Cải tạo đất để nuôi cá, người dân Việt Nam phát hiện vật dài 17m màu vàng lạ, chuyên gia xác nhận báu vật 2.000 năm tuổi hiếm có trên thế giới

Admin

Đã có kết quả mới nhất liên quan đến thuyền cổ ở Bắc Ninh nhờ công nghệ hiện đại.

Cải tạo đất để nuôi cá, người dân Việt Nam phát hiện vật dài 17m màu vàng lạ, chuyên gia xác nhận báu vật 2.000 năm tuổi hiếm có trên thế giới- Ảnh 1.

Theo Cổng thông tin điện tử Bắc Ninh, tháng 3 vừa qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật khẩn cấp di tích hai thuyền cổ trên diện tích 300m². Trước đó, tháng 1, trong lúc cải tạo ao nuôi cá, một người dân phát hiện dấu tích hai thuyền này trên sông Dâu – một nhánh sông Thiên Đức, cách thành Luy Lâu khoảng 1km, gần chùa Dâu và chùa Tổ.

Ngày 3/5, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh báo cáo kết quả bước đầu: hai thuyền còn khá nguyên vẹn, cách nhau 2,3m và nối với nhau bằng tấm gỗ ở phần đầu. Mỗi thuyền dài hơn 16m, rộng 1,95 – 2,2m, sâu khoảng 2,15m. Phần đầu có tấm ván chữ T dài gần 6,5m để khóa chặt hai thân, phần đuôi có cấu trúc gắn bánh lái.

Thân thuyền gồm 7–8 lớp ván, rộng 22–34cm, dày trung bình 4,5cm và chia thành 6 khoang; khoang đầu và khoang cuối có hệ thống đà ngang – dọc phức tạp. Đặc biệt, kỹ thuật nối giữa đáy độc mộc và ván bửng được cố định bằng 4 trụ gỗ 5x5cm, một kỹ thuật chưa từng ghi nhận trong đóng tàu thuyền cổ ở Việt Nam và thế giới.

Hiện nay, các chuyên gia khảo cổ học vẫn chờ đợi kết quả phân tích Carbon-14 (C14) để xác định niên đại của 2 thuyền cổ phát lộ ở Bắc Ninh. Công nghệ Carbon-14 một phương pháp khoa học có thể xác định chính xác tuổi của các vật liệu hữu cơ có niên đại lên tới khoảng 60.000 năm.

Phương pháp này dựa trên thực tế là các sinh vật sống như cây cối, thực vật, con người và động vật—hấp thụ cacbon-14 vào mô của chúng. Khi chúng chết đi, cacbon-14 bắt đầu chuyển hóa thành các nguyên tử khác theo thời gian. Các nhà khoa học có thể ước tính thời gian sinh vật đã chết bằng cách đếm số nguyên tử cacbon-14 còn lại.

Hiện nay, các phòng thí nghiệm hiện đại đã tự động hóa phần lớn quy trình đo C14. Cụ thể, hệ thống robot hoặc cánh tay cơ học thực hiện các công đoạn như sấy khô, nghiền, cân mẫu, đốt cháy tạo CO₂ và chuyển thành graphite, giúp loại bỏ sai sót do con người và rút ngắn thời gian chuẩn bị mẫu. Hay buồng phản ứng kín tự động, điều khiển bằng máy tính tự động điều chỉnh nhiệt độ, áp suất và dòng khí, đảm bảo mỗi mẫu được xử lý đồng nhất.

Mới đây, Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo "Thông báo khảo cổ học toàn quốc lần thứ 60 - năm 2025" công bố những phát hiện mới, kết quả nghiên cứu khảo cổ học và thảo luận định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Tại Hội thảo, Tiểu ban Khảo cổ học Dưới nước công bố kết quả khai quật thuyền cổ tại Hà Mãn Bắc Ninh cho thấy thuyền có hai thân chỉ còn phần chìm dưới nước với niên đại C14 là thế kỷ II – VIII, tức thuyền cổ có từ khoảng 2.000 năm về trước.

Tại Việt Nam, nhiều công nghệ cao đã được sử dụng trong nghiên cứu khảo cổ. Đơn cử như trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ các nhà khảo cổ giải thích dữ liệu chính xác hơn, đẩy nhanh quá trình khám phá và mở rộng hiểu biết về các nền văn minh quá khứ. AI có khả năng xử lý khối dữ liệu khổng lồ tích lũy qua nhiều thập kỷ và lưu trữ trong các kho dữ liệu, phục vụ nghiên cứu khảo cổ hiện tại lẫn tương lai.

Đặc biệt, công nghệ thị giác máy tính (computer vision) giúp phân tích hình ảnh để phát hiện hiện vật, lập bản đồ chính xác các địa điểm cổ đại, nhận diện các mô hình ẩn trong cảnh quan, thậm chí ghép nối những hiện vật vỡ vụn, qua đó tăng tốc khám phá và bảo tồn cả những chi tiết nhỏ nhất về lịch sử – văn hóa.

Việc ứng dụng AI trong khảo cổ đang phát triển mạnh mẽ, với các công cụ quét tự động, mô hình 3D và thực tế ảo giúp tạo bản sao số (digital twin) chân thực, mở rộng khả năng tiếp cận và nghiên cứu cho các nhà khoa học.

Trên thế giới, trí tuệ nhân tạo cũng đang tạo ra bước chuyển mới cho ngành khảo cổ. Từ việc sử dụng mạng nơ-ron sâu để quét ảnh vệ tinh và LiDAR nhằm phát hiện các di tích ẩn dưới lớp đất, đến tự động phân tích ảnh, phân loại và ghép nối hiện vật, AI đã giúp các nhà khảo cổ xác định hàng nghìn công trình cổ mà trước đây phải mất nhiều năm khảo sát thực địa.

Các dự án trên thế giới cho thấy mô hình học máy có thể nhận diện các cấu trúc đá, hệ thống canh tác hay pháo đài cổ ngay cả khi chúng đã bị biến dạng bởi thời gian.

Ngoài ra, AI còn hỗ trợ chuẩn hóa và số hóa khối dữ liệu khổng lồ tích lũy qua nhiều thập kỷ, tạo các bản sao số (digital twin) chân thực và cảnh báo nguy cơ hư hại di tích, qua đó đẩy nhanh quá trình khám phá, bảo tồn và phổ biến di sản văn hóa đến công chúng toàn cầu.