Thu hẹp khoảng cách giữa nghị quyết và thực tiễn

Admin

Những nghị quyết trụ cột là tầm nhìn rất tiến bộ nhưng chỉ trở thành hiện thực khi bộ máy hành chính tự cải cách để tương thích với tinh thần đó

Đất nước ta đang theo đuổi những mục tiêu phát triển mới, song để các nghị quyết của Bộ Chính trị thật sự đi vào cuộc sống, bộ máy hành chính cần phải tự cải cách.

Nhiều thử thách

Bốn nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị - gồm: Nghị quyết 57/2024 về đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết 68/2025 về phát triển kinh tế tư nhân - cùng với các nghị quyết chuyên đề mới ban hành về năng lượng, giáo dục - đào tạo, y tế (số 70, 71, 72) - được xem là những bước ngoặt chính sách lớn.

Thu hẹp khoảng cách giữa nghị quyết và thực tiễn - Ảnh 1.

Nghị quyết 68/2025 về phát triển kinh tế tư nhân là 1 trong 4 nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị. Trong ảnh: Báo Người Lao Động tổ chức tọa đàm về “Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân” vào tháng 3-2025 .Ảnh: HOÀNG TRIỀU

Chưa bao giờ chiến lược phát triển quốc gia lại được định hình rõ ràng, đồng bộ đến vậy. Tuy nhiên, soi chiếu vào thực tế, nhiều nghị quyết vẫn gặp tình cảnh "trên nóng, dưới lạnh".

Ở cấp cơ sở, nhiều công chức vẫn loay hoay giữa những luật, nghị định, thông tư, trong đó không ít quy định chồng chéo, mâu thuẫn. Một chủ trương về cải cách thể chế như Nghị quyết 66 có thể bị trì hoãn hằng năm chỉ vì chưa có thông tư hướng dẫn. Nghị quyết 68 khẳng định kinh tế tư nhân là "động lực quan trọng nhất", song thực tế thì không ít doanh nghiệp lại vướng vào thủ tục đất đai, thuế và việc kiểm tra chồng chéo.

Nghị quyết 57 kêu gọi tự chủ nghiên cứu khoa học - công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Nhưng trong thực tế, một đề tài khoa học cấp bộ vẫn phải qua hàng chục chữ ký và nguồn kinh phí vẫn phân bổ theo cơ chế hành chính, không theo hiệu quả đầu ra.

Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế đã thể hiện tư duy chiến lược, nhấn mạnh việc chủ động tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và chuyển từ "mở cửa" sang "tham gia sâu". Tuy nhiên, nhiều khi hệ thống quản lý vẫn vận hành theo lối cũ: một số bộ, ngành vẫn giữ "phần sân" riêng, thiếu điều phối chiến lược, thiếu tư duy "quốc gia hội nhập thống nhất"...

Nhìn chung, cơ chế điều hành hiện vẫn nặng về "xin - cho", trong khi tinh thần của các nghị quyết mới đòi hỏi mô hình "phục vụ - kiến tạo". Trong thời đại toàn cầu hóa, việc ban hành chính sách chỉ là phần mở đầu của quản trị; điều quan trọng hơn nằm ở cách làm, cách giám sát và điều chỉnh linh hoạt. Có như vậy, nghị quyết mới đi vào cuộc sống, tạo thành động lực phát triển.

Cần một nền quản trị kiểu mới

Gần đây, một số phát biểu lạc quan cho rằng đến năm 2026, GDP Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 10% hoặc hơn. Liệu điều đó có thực tế?

Nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc lớn vào khu vực FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài); còn khu vực kinh tế tư nhân trong nước, dù được xem là "động lực quan trọng nhất", vẫn chỉ đóng góp khoảng 35% GDP. Tăng trưởng công nghiệp đang chậm lại, nông nghiệp chịu áp lực biến đổi khí hậu, còn khu vực dịch vụ chưa bứt phá...

Nếu thể chế không được cải cách thật sự, đặc biệt là tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, minh bạch hóa thủ tục và nâng cao năng lực thực thi công vụ, thì con số 10% chỉ là mục tiêu "tượng trưng". Thực tế, không quốc gia nào có thể tăng trưởng bền vững nếu bộ máy hành chính vẫn vận hành theo lối "xin - cho", ngân sách phân bổ theo cơ chế bình quân và năng lực điều phối chính sách còn bất cập.

Những năm 1970, Hàn Quốc đã vươn từ nền kinh tế nông nghiệp lên công nghiệp hóa. Điều làm nên kỳ tích ấy là hệ thống thực thi có tinh thần trách nhiệm cao. Mỗi chương trình kinh tế trọng điểm đều có "bảng trách nhiệm" công khai: ai làm, tiến độ ra sao và hậu quả nếu chậm trễ.

Trong khi đó, ở Việt Nam, cơ chế giám sát trách nhiệm nhiều khi vẫn mờ nhạt. Không ít trường hợp "đổ lỗi cho cơ chế" thay vì chịu trách nhiệm do hành động.

Cái khó không nằm ở nghị quyết mà là ở chỗ chúng ta chưa có một nền quản trị theo tinh thần nghị quyết. Nghị quyết 66 yêu cầu hoàn thiện thể chế nhưng thể chế không chỉ là văn bản, mà còn là cách tổ chức quyền lực và trách nhiệm trong hành động. Quyền lực mà tách khỏi trách nhiệm thì thể chế cũng chỉ còn cái vỏ.

Muốn đưa các nghị quyết nêu trên đi vào đời sống, cần 3 chuyển đổi lớn. Một là, chuyển từ tư duy ban hành sang tư duy thực thi: đo lường, kiểm chứng, phản hồi chính sách theo dữ liệu và kết quả thực tế. Hai là, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị quốc gia hiện đại - giảm tầng nấc trung gian, giao quyền kèm trách nhiệm, ứng dụng công nghệ số trong giám sát. Ba là, chuyển từ "chính phủ điều hành" sang "chính phủ kiến tạo và phục vụ"; thay đổi văn hóa công vụ, lấy hiệu quả và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo.

Chỉ khi hành động mạnh hơn lời nói; bộ máy nhà nước học hỏi không ngừng, liên tục thích ứng, điều chỉnh và hoàn thiện; nghị quyết được thực thi bằng trách nhiệm và sự minh bạch, thì lúc đó niềm tin xã hội sẽ trở thành nguồn lực phát triển mạnh nhất, khát vọng tăng trưởng GDP 2 con số mới có thể trở thành hiện thực. 

3 trụ cột dẫn dắt

Đại hội lần thứ XIV của Đảng sắp tới được kỳ vọng trở thành cột mốc lịch sử, đặt nền tảng vững chắc cho một thập niên "tăng trưởng thông minh".

Ở đó, trí tuệ (với đổi mới sáng tạo và khoa học cơ bản làm cốt lõi), công nghệ (hướng tới kinh tế số và kinh tế xanh bền vững), cùng đạo lý (thượng tôn pháp luật, liêm chính công vụ và niềm tin xã hội sâu sắc) hòa quyện thành 3 trụ cột không thể tách rời, dẫn dắt Việt Nam vươn tới đỉnh cao phát triển.